Vong hồn phải đi qua bao nhiêu cửa ải mới vào được âm gian
Tâm Linh Số - Trâm
Th 6 03/06/2022
Quỷ Môn quan là cửa ải đầu tiên rất quan trọng để tiến vào địa phủ. Bất cứ vong linh nào khi đến đây cũng đểu bị kiểm tra, mục đích việc kiểm tra xem vong linh đã có tấm giấy thông hành vào cõi địa phủ hay chưa.
Kiểm tra giấy thông hành
Quỷ Môn quan dưới âm gian do những quân quỷ canh gác; tay cầm kiếm kích và kiểm tra giấy thông hành của các vong hồn. Bất cứ vong hồn nào đến đây cũng phải chịu sự kiểm tra của quân quỷ xem đã có giấy thông hành hay chưa. Giấy thông hành chính là tấm giấy phép vào cõi địa phủ, giấy báo để vong hồn sau khi chết đến "điểm danh" tại âm tào địa phủ. Giấy thông hành là một tờ giấy màu vàng có bể dài 3 thước, bể ngang 2 thước, được in ấn rất thô vụng với giá thành rẻ mạt. Trên mặt tờ giấy có in dòng chữ "Phong Đô thiên tử Diêm La Đại Đế cấp giấy thông hành" và "Tất cả thiên hạ đều phải có giấy này, nếu không sẽ không đến được Phong Đô địa phủ để chuyển kiếp thăng thiên".Trên tờ giấy còn có ba dấu đổ của Phong Đô Đại Đế, Thành hoàng và huyện phủ Phong Đô. Sau khi con người chết đi, tờ giấy này sẽ được đốt để linh hồn nhận lấy và mang đến Quỷ Môn quan. Sau khi kiểm tra, thấy không có vấn đề gì, linh hồn mới được qua Quỷ Môn quan. Những linh hồn không qua được Quỷ Môn quan sẽ không thể đầu thai chuyển kiếp, chỉ có thể biến thành cô hồn đá quý, lang thang khắp chốn.
Phong Đô Quỷ Môn quan
Quỷ Môn quan chính là cánh cửa dẫn vào địa phủ, nằm ở phía tây nam của điện Thiên Tử. Ngay phía trước Quỷ Môn quan có cánh cổng của âm tào địa phủ; ở bên ngoài, phía tay phải lại có một cây cột bằng đá, trên khắp bốn chữ lớn "Diêm phủ là đây!" Quỷ Môn quan là một cánh cổng xây kiểu cổ với bố đầu đao vút cong. Cổng tam quan sơn đen, rộng bao la như vũ trụ, vô cùng lạnh lẽo. Trên bức hoành phi nằm ngang phía trên cống có màu đỏ thẫm như máu khô là ba chữ lớn trông rất đáng sợ: "Quỷ Môn quan". Hai bên cửa, ở phía ngoài còn có 18 tên quỷ chuyên trừng phạt những kẻ ác đang đứng xếp thành hàng, tên quỷ nào cũng mặt mày dữ tợn, nhe nanh giương vuốt, tư thế vô cùng quái dị và sống động. Bên cạnh cửa là những cây cổ thụ với cành lá loà xoà, với tiếng quạ, sẻ kêu chói tai, trên nữa là trăng sao lạnh lẽo,... Tất cả đã tạo nên một cảm giác vô cùng u ám, rùng rợn.

Quỷ Môn quan là cánh cửa dẫn vào địa phủ, hai bên có quân quỷ canh giữ. Nhiệm vụ chủ yếu của quân quỷ là kiểm tra những vong hồn được dẫn đến đây đã có giấy thông hành hay chưa.
16 quỷ mới
Phía trước Quỷ Môn quan có 16 tên quỷ lớn mới được khắc. Theo truyền thuyết, chúng là một nhóm ác quỷ được Diêm La Vương lựa chọn một cách đặc biệt để trấn giữ ở Quỷ Môn quan. Đối với những vong hồn dã quỷ có tội ác chất chồng như núi, bản tính xấu xa không biết hối cải, lũ quỷ này sẽ có cách tra khảo vô cùng hà khắc, tàn độc, không để bất cứ vong hồn nào qua mắt được. Các hình khắc trên đá này đã thể hiện tinh thần "trừng phạt cái ác, nêu gương cái thiện" và "thiện giả thiện báo, ác giả ác báo" trong văn hoá quỷ thành cũng thể hiện tinh thần nhân văn phong phú hàm chứa trong văn hoá quỷ thành. Thủ Pháp kết hợp giữa tả thực và phóng đại đã tạo dựng nên những hình tượng nghệ thuật sinh động, mới lạ theo đúng yêu cầu tâm lý và thẩm mỹ của quần chúng nhân dân. Đổng thời, thủ pháp này cũng góp phần truyền bá rộng rãi bầu không khí văn hoá đặc biệt của quỷ thành với hình tượng cá tính nổi bật, thẩm tái sinh động, tạo hình mới lạ, có sức lay động thị giác nhất định.
Sau khi qua được Quỷ Môn quan, vong linh sẽ phải đi tiếp qua cầu Nại Hà Dưới sự áp giải của Hắc Bạch Vô Thường. Cầu Nại Hà là con đường mà tất cả các vong hồn đểu phải đi qua để đến được địa ngục minh phủ. Nước sông Nại Hà đểu là máu, vô cùng tanh hôi, trong lòng sông là vô số quỷ hồn đang nhe nanh múa vuốt, vô cùng gớm ghiếc.
Nguồn gốc của sông Nại Hà
Hai chữ "Nại Hà" là dịch âm của từ "địa ngục" trong tiếng Phạn. Như vậy cũng có nghĩa là, quan niệm "Nại Hà" chính là địa ngục đã chịu sự ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ. Tuy nhiên, quan niệm Nại Hà là dòng sông của âm phút lại là sự sáng tạo của tín ngưỡng Phật giáo đời Hán. Cái tên "Nại Hà" xuất hiện đầu tiên trong các thư tịch đời Đường. Trong tác phẩm "Mục Kiền Liên xuống âm phủ cứu mẹ" từ văn hiến Đôn Hoàng miêu tả khi Mục Liên tìm mẹ ở dưới âm phủ, đã tận mắt nhìn thấy cảnh tượng sinh ly tử biệt rất đáng sợ của những tội nhân cõi địa ngục trên cầu Nại Hà.
Trong nhiều bài từ của động Đôn Hoàng, trong thơ của thi nhân đời Đường Vương Phạm Chí cũng đã nhiều lần nhắc đến Nại Hà. Tác giả Trương Độc đời Đường trong quyển 4 của tác phẩm "Tuyên thất chí" có chép rằng, vong hồn của Đổng Quán được vong linh của một nhà sư là Linh Tập dẫn đường xuống địa ngục. Khi đi được hơn mười dặm, nhìn thấy một dòng sông với bể rộng dài thướt, đang cuồn cuộn chảy về hướng tây nam, Đổng Quán hỏi Linh Tập,Linh Tập đáp rằng: "Đây chính là sông Nại Hà là người trần thường hay nhắc tới, đầu nguồn của nó tại địa phù". Đổng Quán quan sát một hồi, thấy trong lòng sông toàn là máu đổ, vô cùng tanh hôi nên không thể lại gần được; lại nhìn thấy trên bờ sông có rất nhiều mũ và thắt lưng, Linh Tập bảo rằng quần áo đó là của những người chết, từ đó có thể đến được địa phủ.
Cầu Nại Hà
Cầu Nại Hà được chia thành ba cây cầu với độ cao khác nhau. Bể rộng và kết cấu hình dạng của ba cây cầu này về cơ bản là tương đồng với nhau. Ngày Nay, cả ba cây cẩu này đã được ghép lại thành một cầu lớn. Cầu Nại Hà ở giữa,bên dưới đào một ao hình vuông, dưới đáy ao và hai bên vách cẩu đểu là những phiến đá lớn. Mặt cẩu rất hẹp, hiểm trở và trơn trượt, lại được thần Nhật Du thần Dạ Du canh giữ. Dưới cầu là dòng sông máu với rất nhiều côn trùng, rắn rết, sóng nước cuốn cuộn, tanh hôi vô cùng, khiến mọi người không khỏi rùng mình kinh hãi.Dân gian lưu truyển rằng: Sau khi một người chết đi, vong hồn sẽ phải đi qua cầu Nại Hà; những người lương thiện sẽ được thần Phật phù hộ nên sẽ qua câu dễ dàng, an toàn; những kẻ ác sẽ bị rơi xuống dòng sông máu và phải chịu tội. Vong hồn của những người lương thiện sẽ được đi qua cây cầu cao nhất một cách an toàn; vong hồn của những người nửa thiện nửa ác sẽ phải đi qua cây cầu ở giữa và vong hồn của những kẻ ác sẽ phải đi qua cây cẩu thấp nhất.

Sau khi vong hồn đi qua Quỷ Môn quan là đến cầu Nại Hà. Cầu Nại Hà được chia thành ba cây cầu có độ cao khác nhau do thần Nhật Du và thần Dạ Du canh giữ, bên dưới có một dòng sông máu rất đáng sợ.
Vì cẩu rất thấp nên đa phần các vong hồn khi đi qua đây đểu sẽ bị quỷ dữ kéo xuống dòng sông tanh hôi, bị rắn đổng và chó sắt cắn xé. Hàng năm, vào ngày lễ hội các khách hành hương đẹp tranh nhau ném tiền giấy hoặc tiền xu xuống sông, lại đổ cả gạo rang xuống sông vì cho rằng làm vậy có thể giúp đỡ được quỷ đói. Các khách hành hương lớn tuổi còn rất thích bước qua cây cầu này; họ cho rằng khi đã qua được cây cẩu này rồi thì sau khi chết sẽ được miễn đi qua cây cầu Nại Hà đau khổ kia. Từ đó, có thể thấy rằng, trước đây một số thiện nam tín nữ đến trước cầu thắp hương, hóa vàng, thả tiền hay lễ vật là do đều có tâm nguyện sau khi chết sẽ được Phật phù hộ để qua cầu Nại Hà dễ dàng, thuận lợi. Cầu Nại Hà chính là nhân chứng lịch sử, tượng trưng cho tâm nguyện tốt đẹp của tất cả mọi người. Bên cạnh đó, cây cầu còn mang ý nghĩa giáo dục mọi người nên làm nhiều việc tốt, tích đức hành thiện, tạo phúc cho nhân loại.
Tam Sinh thạch là gì
Tam Sinh trong tên gọi "đá Tam Sinh" lần lượt đại diện cho "tuyển sinh"(kiếp trước), "kim sinh" (kiếp này) và "lai sinh" (kiếp sau) của mỗi người. Trên Bề mặt đá tam sinh phản ánh quan hệ vấn vương giữa các kiếp. Tảng đá Tam Sinh dưới âm gian đứng sừng sững ngay bên cạnh cầu Nại Hà, có thể phản ánh toàn bộ kiếp trước của con người. Nhân của kiếp trước, quả của kiếp này,túc mệnh luân hồi, duyên khởi duyên diệt,... tất cả đều được khắc trên đá tam sinh. Từ hàng trăm nghìn năm nay, đá tam sinh đã chứng kiến sự khổ đau và an lạc, sự bi thương và hoan hỷ, nụ cười cũng như nước mắt của muôn ngàn chúng sinh. Những món nợ cần phải bỏ qua, những ân tình cần phải báo đáp;trước đá Tam Sinh, đều bị xoá bỏ.

Khi đi hết cầu Nại Hà, vong linh sẽ nhìn thấy Tam Sinh thạch đứng sừng sững vững ở bên cạnh cầu.
Ý nghĩa văn hoá của đá Tam Sinh
Đá Tam Sinh là một phiến đá rất nổi tiếng ở Trung Quốc, có thể sánh ngang với khối đá còn lại sau khi Nữ Oa luyện đá vá trời. Sau này, đá Tam Sinh phát triển thành tín ngưỡng của con người đối với kiếp trước và kiếp sau.Không chỉ có nhiều người coi đá Tam Sinh là vật tượng trưng cho lòng can đảm mà nhiều cặp tình nhân cũng đã viết lời thể nguyện của mình trên phiến đá này. Câu tục ngữ "duyên định tam șinh" cũng ra đời từ đây.Chúng ta thường nói "vợ chồng bảy kiếp", "không phải oan gia không gặp nhau", "Tu mười năm mới được ngồi cùng thuyền, tu trăm năm mới được nằm cùng giường", ,... thậm chí nhiều người tronglúc giận dữ thường thể rằng:"Tôi có chết cũng không tha thứ cho anh"; hay cảm kích mà rằng: "Kiếp sautội nguyện làm trâu ngựa để báo đáp anh"; hay khi gặp vận rủi lại than thở rằng: "Kiếp trước tôi đã tạo nên nghiệp chướng gì thế này!",... Khi nhìn thấy vợ chồng người khác bất hoà, mọi người thường nói: "Đúng là oan gia từ kiếp trước!"
Tam Sinh thạch phản ánh cách nhìn nhận của người Trung Quốc với quan niệm "sự sống là vīnh hằng". Thông qua quan niệm "luân hồi" và "chuyển kiếp", người Trung Quốc đã xây dựng nên một hệ thống quan niệm về luân lý,sinh mệnh, triết học và thậm chí là toàn bộ vũ trụ. Hơn nữa, đây cũng chính là quan điểm nhập thế của Phật giáo. Quan niệm này vô cùng phổ biến trong dân gian, ngày nay mỗi khi giết gà vịt, người ta thường nói:"Hoá kiếp cho mày kiếp sau được làm người!" Thậm chí, ngay ca đến những phạm nhân phải chịu tội tử hình, trước khi bị hành hình cũng sẽ kêu to lên rằng: "20 năm sau lại làm một anh hùng hảo hán!"
Sau khi con người chết đi, vong linh đi hết con đường Hoàng tuyển sẽ đến cầu Nại Hà. Tại đây, vong linh sẽ nhìn thấy Tam Sinh thạch. Đây là một tảng đá lớn, đứng sừng sững bên cầu Nại Hà, chứng kiến những vong hồn chuẩn bị uống bát canh Mạnh Bà, luân hồi đầu thai trong cõi hồng trần.